Ông Jeff Becker, nhà nghiên cứu và tư vấn trong lĩnh vực quốc phòng, hiện đang sinh sống tại Virginia, Hoa Kỳ mới đây đã có bài viết mang tựa đề “Làm sao để ngăn chặn Trung Quốc hoàn tất việc chiếm cứ Biển Đông”. Bái phân tích được đăng trên website của Viện Chính sách Chiến lược Úc (ASPI) ngày 21/7 và được RFI giới thiệu. Qua đây, tác giả đã đề xuất một một kế sách triệt để nhằm ngăn chặn tham vọng bá quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.
Ông Becker đã khẳng định thời gian gần đây Trung Quốc đang đẩy mạnh chiến dịch nuốt trọn Biển Đông.
Ông nêu bật nguy cơ đến từ các tiền đồn quân sự mà Trung Quốc đã xây dựng trên các thực thể mà họ đã chiếm đóng tại vùng Biển Đông.
Theo Jeff Becker, việc Bắc Kinh quân sự hóa các đảo đá mà nước này chiếm giữ ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã giúp Trung Quốc gia tăng đáng kể khả năng khống chế các thực thể khác ở Biển Đông. Lợi thế này còn cho phép Bắc Kinh áp đặt quyền kiểm soát toàn bộ vùng biển và bầu trời bên trên trong tương lai. Cho đến nay, Trung Quốc luôn lớn tiếng phản đối việc các nước khác thực hiện quyền đi lại vô hại hay có những hoạt động quân sự khác bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý.
Trên bình diện ngoại giao, Bắc Kinh đã sử dụng chiến thuật “chia để trị” trong ASEAN tức là ra sức áp đặt nguyên tắc đàm phán song phương với từng quốc gia tranh chấp để vừa dễ dàng gây áp lực với quốc gia đó bằng cách lôi kéo, cướng ép, đe dọa, buộc các nước phải hành động theo lợi ích của Trung Quốc, vừa để phá vỡ sức mạnh đoàn kết nội khối ASEAN trong việc tìm kiếm đối sách chung.
Về mặt luật pháp, Trung Quốc cương quyết không thừa nhận và chấp hành phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài Thường trực La Haye bác bỏ tính chất hợp pháp của yêu sách chủ quyền “Đường 9 đoạn” của Trung Quốc.
Chiến lược của Bắc Kinh là xây dựng lực lượng và cơ sở trong vùng để trong dài hạn có thể áp đặt quyền chủ quyền trên cả Biển Đông.
Ông Becker khẳng định tham vọng chủ quyền nói trên của Trung Quốc mang một quy mô to lớn chưa từng thấy ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, cũng như chưa từng thấy trong luật pháp quốc tế. Đây chính là một kịch bản tồi tệ mà giới hoạch định kế hoạch quân sự và chiến lược thế giới phải tránh không cho xảy ra.
Biển Đông là một vùng đại dương rộng lớn có tính then chốt và chiến lược. Biển Đông rộng hơn Địa Trung Hải đến 1/3, và lớn hơn gấp đôi Vịnh Mêhicô.
Không chỉ các nước có tranh chấp chủ quyền trực tiếp trên Biển Đông mới có lợi ích chiến lược tại đây mà cả những quốc gia ngoài vùng Biển Đông cũng những quyền lợi khác nhau tại vùng biển quan trọng này. Mỹ, Úc, Nhật Bản, Ấn Độ cùng nhiều nước khác có quyền lợi thiết yếu trong việc sử dụng vùng biển này cho những mục tiêu kinh tế, khoa học cũng như quân sự của mình. Một thực tế mang tính khẩn cấp hơn nữa là cần phải duy trì được các quyền tự do di chuyển trên vùng biển khơi và trong tương lai, trên không trung để đảm bảo quyền lợi của tất cả các quốc gia.
Công nhận đòi hỏi chủ quyền rộng khắp của Trung Quốc trên một vùng rộng lớn như thế sẽ tạo ra một tiền lệ xấu, làm tăng nguy cơ những vùng biển chung rộng lớn của quốc tế bị những nước riêng lẻ chiếm dụng và kiểm soát.
Theo nhà nghiên cứu Jeff Becker, không làm gì là đồng nghĩa với việc nhường cho Trung Quốc quyền kiểm soát thường xuyên các hoạt động kinh tế, quân sự trên vùng biển chủ chốt này.
Cộng đồng quốc tế phải chọn lựa trong thời điểm này. Một là duy trì những vùng biển chung tự do, rộng mở và bảo vệ luật quốc tế. Hai là để yên cho Trung Quốc chiếm đoạt Biển Đông, với nguy cơ dẫn đến những đòi hỏi tương tự trên tất cả các đại dương của thế giới.
Để ngăn chặn viễn cảnh đó, cần phải tâp hợp càng nhiều quốc gia càng tốt để có phản ứng cứng rắn, mạnh bạo ngăn cản Trung Quốc.
Học giả Becker kêu gọi các nước đều có lợi ích trong việc duy trì một vùng Biển Đông thông thoáng, tự do nên cần phải có biện pháp triệt để hơn để ngăn không cho Trung Quốc hoàn tất mưu đồ của họ.
Tác giả nhận định việc Washington đã tuyên bố rằng các đòi hỏi của Bắc Kinh về Biển Đông là bất hợp pháp và đã nhấn mạnh tuyên bố này bằng cách phái hai tàu sân bay và nhóm tàu hộ tống vào thao diễn trong khu vực là một khởi đầu tốt.
Nhưng Trung Quốc lại có lợi thế “sân nhà” trong khu vực; vì thế Hoa Kỳ và tất cả các đồng minh, đối tác trong cộng đồng quốc tế cần cùng nhau phối hợp hoạt động đối phó với Trung Quốc trên tất cả các vùng biển quốc tế khác.
Tác giả đề xuất một biện pháp cụ thể là Hoa Kỳ cùng với các tất cả các đồng minh và đối tác phải công khai gắn liền việc Trung Quốc sử dụng vùng biển chung của thế giới với cách hành xử của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Cụ thể, cộng đồng quốc tế phải bắt đầu thực hiên biện pháp tăng cường các hạn chế về hành chính và kỹ thuật đối với việc Trung Quốc vận chuyển trên biển, trên không, quá cảnh qua những vùng đặc quyền kinh tế của các nước tham gia hành động chung.
Việc giới hạn quyền quá cảnh kinh tế, quân sự và thăm dò khoa học phải được lên kế hoạch trước và dễ điều chỉnh để có thể tương xứng với hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Một khi quốc tế làm được như vậy, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn không ít, sẽ thấy được cái giá cực cao, những khó khăn phức tạp để tiếp cận vùng Ấn Độ – Thái Bình Dương và những nơi khác.
Ông Becker đưa ra một ví dụ: Nếu Nhật Bản và Philippines cùng với Hoa Kỳ áp dụng biện pháp hạn chế tiếp cận thì Trung Quốc không thể có đường ra thẳng Tây Thái Bình Dương. Biện pháp này nên được thông báo cho Trung Quốc, nếu Bắc Kinh dùng sức mạnh áp đặt chủ quyền và quyền kiểm soát ở Biển Đông.
Việc giới hạn quyền của Trung Quốc đi qua các vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác phải đi kèm theo việc bảo đảm là các vùng này vẫn được mở cho các quốc gia tham gia chiến dịch đáp trả. Hơn nữa những biện pháp đối với Trung Quốc sẽ phải uyển chuyển, có thể bỏ đi dễ dàng khi Trung Quốc xét lại hành động của mình ở Biển Đông.
Tuy nhiên, ông lưu ý việc bảo đảm ở mức độ cao nhất quyền tự do tiếp cận các vùng biển chung của thế giới phải là mục tiêu tối hậu của nỗ lực quốc tế này.
Theo ông, cho dù chiến lược đáp trả ý đồ hung hăng nhất của Trung Quốc ở Biển Đông như vừa kể có vẻ rất mạnh bạo, các quốc gia cùng ý chí trên thế giới nên sẵn sàng gây cú sốc, buộc Trung Quốc phải cân nhắc lợi hại trước việc giới hạn quyền tự do hàng hải ở Biển Đông và việc tự do sử dụng vùng biển chung của thế giới.
Ngay cả khi thế giới lao đao với đại dịch khởi phát từ Trung Quốc thì nước này vẫn không ngừng thúc đẩy các hành vi phi pháp tại Biển Đông.
Hình ảnh vệ tinh thương mại từ ngày 17/4 đến ngày 25/6 cho thấy Trung Quốc đưa máy móc hạng nặng tới bờ biển phía tây bắc đảo Phú Lâm để nạo vét, bồi đắp, theo Benarnews.
Chiến dịch bồi đắp đảo nhân tạo của Trung Quốc đã được thực hiện rộng khắp từ năm 2014 đến năm 2016 ở Biển Đông, phá hủy môi trường tự nhiên và quân sự hóa các bãi đá và rạn san hô nơi nước này chiếm đóng.
Bốn căn cứ lớn nhất mà Trung Quốc duy trì ở Biển Đông – Đá Subi, Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn và Đảo Phú Lâm – hầu như không thể nhận ra kể từ khi việc bồi đắp kết thúc vào năm 2017, tạo ra các bến cảng nước sâu, đường băng, và nơi sinh hoạt. Nhưng việc nạo vét quy mô nhỏ vẫn tiếp tục, như hình ảnh vệ tinh mới nhất này cho thấy.
Việc nạo vét mới trên đảo Phú Lâm được Trung Quốc thực hiện vào thời điểm nhạy cảm khi mà hồi tháng 5 vừa qua, Indonesia đã cùng với Việt Nam, Philippines và Malaysia tố cáo Trung Quốc về việc khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông trong một loạt các công hàm gửi lên Liên Hiệp Quốc.
Không dừng lại ở đó, Trung Quốc còn liên tiếp có thêm nhiều hành động nhằm áp đặt quyền kiểm soát trên Biển Đông như tập trận ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, lần gần đây nhất là từ ngày 15-17/7; phái tàu khảo sát xuống Trường Sa hay liên tục cho tàu hải cảnh đến sách nhiễu các mỏ dầu khí của Việt Nam.
Hình ảnh vệ tinh từ ngày 15/7 cho thấy ít nhất bốn máy bay chiến đấu đã xuất hiện ở đây. Động thái này diễn ra hai ngày sau khi Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo tuyên bố rằng các yêu sách của Bắc Kinh đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi trên hầu hết Biển Đông là ‘hoàn toàn bất hợp pháp’.
Bắc Kinh còn luôn phản đối hoạt động của các công ty nước ngoài tại vùng biển tranh chấp ở Biển Đông và Việt Nam là một nạn nhân mới đây nhất của Trung Quốc. Tàu thăm dò Hải Dương 8 của Trung Quốc đã quay lại EEZ của Việt Nam vào giữa tháng 6 nhằm cố gắng đe dọa Việt Nam về việc hợp tác khai thác dầu trên Biển Đông với một đối tác quốc tế. Tiếp đó vào tháng 7, tàu 5402 của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Trung Quốc (CCG) đã vào khu vực mỏ khí Lan Đỏ thuộc Lô 06-01 để theo dõi hoạt động của nhà giàn tại mỏ khí Lan Tây. Bốn ngày sau, có thông báo rằng hợp đồng của Noble Clyde Boudreaux với Việt Nam đã bị hủy bỏ.
Nguồn tin thân cận với các lãnh đạo ngành dầu khí Việt Nam, ông Nguyễn Lê Minh, thuộc Hội đồng Biên tập và Phản biện Tạp chí Năng lượng Việt Nam, tiết lộ với BBC rằng vụ hủy hợp đồng khoan của Tập đoàn Noble là ‘do sức ép từ Trung Quốc’. Và chi chi phí bồi thường được giới truyền thông ước tính là nhiều triệu đô la.
Hoàng Lan từ Hà nội – Thoibao.de (Tổng hợp)
>>> Mỹ tổng lực tấn công “mối đe dọa chiến lược” Trung Quốc
>>> Biển Đông: Trung Quốc bội tín, vừa đấm vừa xoa
>>> Các đại sứ Mỹ ở ASEAN “tổng tấn công” Trung Quốc về Biển Đông